Vượt qua 970 đề cử đến từ 71 quốc gia trên 6 châu lục,ýdocôngtrìnhcôngnghệmạngtoàncầunhậngiảicaonhấtcủgiải vô địch quốc gia tây ban nha Giải thưởng Chính VinFuture 2022 trị giá 3 triệu USD được trao cho 5 nhà khoa học phát minh ra công nghệ mạng toàn cầu.
Đỉnh cao của công nghệ mạng toàn cầu vẫn ở phía trước
- Giải thưởng Chính VinFuture 2022 vinh danh công nghệ mạng toàn cầu - một tổ hợp các phát minh đã được công bố và đi vào cuộc sống nhiều năm trước. Liệu có phải Hội đồng Giải thưởng không có đề cử nào mới xuất sắc?
Hoàn toàn ngược lại. Các đề cử mà VinFuture mùa 2 nhận được không chỉ lớn về số lượng mà còn vượt trội về chất lượng so với mùa 1. Hội đồng đã vất vả để chọn ra công trình xuất sắc nhất để trao giải.
Tiêu chí của VinFuture là vinh danh các nghiên cứu, phát minh đột phá đã hoặc có tiềm năng tạo ra sự thay đổi ý nghĩa trong cuộc sống của hàng triệu người. Và công trình đạt Giải thưởng Chính năm nay hoàn toàn đáp ứng được tiêu chí đó; thậm chí còn vượt xa mong đợi khi mang tới “tác động kép” cho nhân loại.
- Cụ thể các tác động đó đến nhân loại ra sao, thưa giáo sư?
Thế giới đang chứng kiến sự phát triển đáng kinh ngạc của hàng loạt công nghệ mới như: Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn (Big Data), Trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain, Mạng 5G, 6G… Nhiều thứ chỉ vài năm trước thôi vẫn còn được xem là “không tưởng”. Tất cả công nghệ này đều không thể thành hiện thực nếu không có công nghệ mạng toàn cầu.
Công nghệ mạng toàn cầu đã thay đổi thế giới. Hàng tỷ người đang hưởng lợi từ công nghệ mạng toàn cầu. Thậm chí, vai trò của công nghệ mạng toàn cầu còn nhân lên nhiều lần trong đại dịch, khi lượng dữ liệu được nhân loại chia sẻ riêng trong 2 năm này đã chiếm tới 50% tổng dữ liệu từ khi phát minh này ra đời.
Tuy nhiên, những tác động đột phá và đỉnh cao phát triển của công nghệ này vẫn ở phía trước. Nhân loại mới chỉ đang ở giai đoạn “bình minh” của công nghệ mạng toàn cầu và lịch sử của nó chỉ vừa mới bắt đầu.
- Chủ điểm của giải thưởng VinFuture năm nay là “Hồi sinh và Tái thiết”, vậy đâu là mối tương quan giữa công nghệ mạng toàn cầu và chủ đề này?
Covid-19 là một trong những biến cố lớn mà nhân loại phải đối mặt trong nhiều thập kỷ trở lại đây. Riêng năm 2020, kinh tế thế giới suy giảm tới 4,3% - con số chỉ từng được ghi nhận trong cuộc đại suy thoái những năm 1930 và trong 2 cuộc chiến tranh thế giới.
Nhưng điều tuyệt vời là ngay sau khi dịch bệnh được khống chế, thế giới đã nhanh chóng phục hồi. Đó chính là nhờ trong suốt 2 năm đại dịch, dù các quốc gia phải cách ly, phong tỏa kéo dài nhưng kết nối toàn cầu vẫn được duy trì thông qua công nghệ mạng toàn cầu. Con người vẫn làm việc, học tập, giao tiếp, giao dịch… với nhau, chỉ là theo cách thức hoàn toàn khác.
Tôi cho rằng, chỉ cần Covid-19 xảy ra khoảng 20 năm về trước thì mọi chuyện đã khác. Khi đó, tổn thất sẽ khủng khiếp hơn. Do đó, công nghệ mạng toàn cầu chính là nền tảng giúp thế giới kiên cường hơn trước “cú sốc” đại dịch, đồng thời phục hồi nhanh chóng hơn và mạnh mẽ hơn khi “cơn bão” Covid-19 đi qua.
Sau đại dịch, công nghệ mạng toàn cầu đang “tái định hình” thế giới theo cách bền vững hơn. Như ở Anh, dù cuộc sống đã trở lại bình thường nhưng lượng phương tiện đi lại ít hơn hẳn. Đó là bởi người dân đã quen với phương thức làm việc ở nhà. 2 năm qua, công nghệ mạng toàn cầu đã thay đổi sâu sắc cách thức chúng ta giao tiếp, làm việc, di chuyển… theo hướng giảm tiêu thụ năng lượng, giảm phát thải, góp phần cải thiện môi trường.
Tìm kiếm các công trình đột phá bằng “lăng kính” khác biệt
- Trong quá trình chấm giải, các thành viên Hội đồng VinFuture có những ý kiến ra sao về giải thưởng này, thưa giáo sư?
Ban đầu chúng tôi cũng có những quan điểm khác nhau. Đã có khá nhiều cuộc tranh luận diễn ra.
Nhưng may mắn rằng Hội đồng Giải thưởng VinFuture quy tụ nhiều nhà khoa học hàng đầu trong các lĩnh vực khác nhau, nhờ đó chúng tôi có được góc nhìn đa chiều và đánh giá đầy đủ về từng đề cử. Cuối cùng, hội đồng đã đạt được đồng thuận cao trong việc trao giải thưởng cao nhất cho phát minh về công nghệ mạng toàn cầu.
- Các nhà nghiên cứu đạt giải VinFuture cũng chiến thắng ở nhiều giải thưởng quốc tế khác, thậm chí còn được vinh danh từ nhiều năm trước. Điều này liệu có khiến VinFuture giống như một nơi tôn vinh các phát minh vĩ đại hơn là khuyến khích các dự án mới?
Tôi không nghĩ vậy. VinFuture mới bước qua mùa giải thứ 2 nhưng số lượng đề cử chúng tôi nhận được thậm chí vượt qua nhiều giải thưởng lâu đời khác. Chất lượng các đề cử cũng không hề thua kém.
Trong mùa giải đầu tiên, công trình chiến thắng - vắc-xin mRNA ra đời từ 2 nghiên cứu là công nghệ mRNA và hạt nano lipid. Năm nay công nghệ mạng toàn cầu - công trình đạt giải thưởng cao nhất - là kết quả của nhiều phát minh gồm: giao thức điều khiển truyền dẫn và giao thức công nghệ mạng toàn cầu, công nghệ mạng toàn cầu World Wide Web và bộ khuếch đại sợi quang pha tạp Erbium.
VinFuture đánh giá các nghiên cứu một cách toàn diện trong mối quan hệ đa chiều. Nhiều nghiên cứu có thể mãi mãi không đi đến đích hoặc ít được ứng dụng khi nằm riêng lẻ, nhưng nếu kết nối chúng lại với nhau đột phá có thể xảy ra.
“Lăng kính” khác biệt giúp VinFuture tìm kiếm được các công trình có thể mang lại lợi ích cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Điều này làm nên sự đặc biệt của Giải thưởng VinFuture so với bất kỳ giải thưởng nào khác.
GS Đỗ Đức Thái, Chủ biên chương trình môn Toán – chương trình phổ thông mới. Ảnh: Thanh Hùng.
Để đạt được mục tiêu trên, chương trình môn Toán mới được ban soạn thảo xây dựng trên các phương châm: Tinh giản, thiết thực, hiện đại và khơi nguồn sáng tạo.
Nội dung phải tinh giản, phản ánh những giá trị cốt lõi, nền tảng của văn hóa toán học. Đây là nội dung nhất thiết phải được đề cập trong nhà trường phổ thông, phản ánh nhu cầu hiểu biết thế giới cũng như hứng thú, sở thích của người học.
Chương trình chú trọng tính ứng dụng thiết thực, gắn kết với đời sống thực tế và các môn học khác, gắn với xu hướng phát triển hiện đại của kinh tế, khoa học, đời sống xã hội và những vấn đề cấp thiết có tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, giáo dục tài chính...
Tính hiện đại của chương trình môn Toán sẽ giúp học sinh Việt Nam sau giai đoạn giáo dục phổ thông có thể hội nhập quốc tế, tham gia được vào thị trường lao động toàn cầu.
Chúng ta muốn đưa đất nước đi lên, muốn xây dựng một quốc gia khởi nghiệp thì phải có những con người sáng tạo. Do đó, giáo dục Toán học phổ thông cần khơi gợi sự sáng tạo ấy ở mỗi người học sinh.
Ngoài ra, chương trình mới sẽ kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình hiện hành, có sự phân hóa để đáp ứng nhu cầu học Toán của học sinh. Quán triệt tinh thần “Toán học cho mọi người”, ai cũng được học Toán nhưng mỗi người có thể học Toán theo cách phù hợp với sở thích và năng lực cá nhân. Bên cạnh đó, chương trình có tính mở để thực hiện chủ trương “một chương trình nhiều bộ SGK”, dành không gian sáng tạo cho tác giả SGK và giáo viên khi dạy học.
- Ông vừa đề cập đến tính ứng dụng thiết thực của chương trình môn Toán mới. Vậy ông có thể chia sẻ rõ hơn về nội dung này?
- Chương trình mới thống nhất từ lớp 1 đến 12, có cấu trúc xoay quanh và tích hợp ba mạch kiến thức: Số và Đại số; Hình học và Đo lường; Thống kê và Xác suất.
Những nội dung về ứng dụng Toán học, những mạch kiến thức gắn liền với cuộc sống rất được chú trọng trong chương trình môn Toán mới, được dành thời lượng thích đáng trong tổng thời lượng chương trình môn Toán của cả 12 năm.
Cụ thể, chúng tôi dành khoảng 21% tổng thời lượng chương trình môn Toán của cả 12 năm cho nội dung về ứng dụng Toán học. Trong đó, khoảng 12% tổng thời lượng dành cho Thống kê và Xác suất và sẽ được dạy xuyên suốt từ lớp 2 đến lớp 12. Các giờ thực hành và hoạt động trải nghiệm môn Toán chiếm khoảng 9%, có trong tất cả lớp, cấp học.
Đối với những mạch kiến thức vốn có tính chất “hàn lâm” như Số học, Đại số hay Hình học, chúng tôi cũng tăng cường đòi hỏi tính ứng dụng trong yêu cầu cần đạt của từng chủ đề. Ví dụ khi học sinh học về diện tích hình chữ nhật… giáo viên phải giúp các em biết vận dụng kiến thức đó sẽ giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống xung quanh. Hay chuyên đề học tập giới thiệu cho học sinh lớp 11 về đồ họa, vẽ kỹ thuật, giúp các em đọc được những bản vẽ cơ bản.
Một ví dụ khác, ở lớp 12, chương trình thiết kế chuyên đề ứng dụng Toán học trong các vấn đề liên quan đến tài chính, giúp học sinh biết vận dụng kiến thức toán học trong việc giải quyết một số vấn đề về lãi suất và vay nợ của các tổ chức tín dụng; biết vận dụng kiến thức toán học trong việc giải quyết một số vấn đề về đầu tư...
Với thời lượng lớn dành cho nội dung ứng dụng Toán học, chúng tôi tự tin học sinh sẽ rất thích thú với môn Toán vì thấy gần gũi với cuộc sống.
Ảnh minh họa: Thanh Hùng.
Một điểm nhấn trong chương trình môn Toán mới là tăng cường mạch kiến thức về Thống kê và Xác suất và sẽ được dạy xuyên suốt từ lớp 2 đến lớp 12. Lần đầu tiên chương trình dành thời gian thích đáng để tiến hành các hoạt động trải nghiệm toán học cho học sinh ở từng lớp.
Những hoạt động đó sẽ giúp học sinh vận dụng những tri thức, kiến thức, kỹ năng, thái độ đã được tích luỹ từ giáo dục toán học và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo; phát triển cho học sinh năng lực tổ chức và quản lý hoạt động, năng lực tự nhận thức và tích cực hoá bản thân; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp; tạo dựng một số năng lực cơ bản cho người lao động tương lai và người công dân có trách nhiệm.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng muốn lưu ý thêm rằng nội dung môn Toán thường mang tính trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường phổ thông cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “áp dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể.
- Thưa ông, chương trình chung nhắc nhiều đến sự tích hợp liên môn, với môn Toán điều này sẽ được thể hiện như thế nào?
- Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển phẩm chất, nhân cách học sinh; phát triển kiến thức, kỹ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn; tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học khác, đặc biệt với các môn học thuộc lĩnh vực giáo dục STEM.
Chương trình có các nội dung, chủ đề liên quan hoặc các kiến thức toán học được khai thác, sử dụng trong các môn học khác như Vật lý, Hoá học, Sinh học, Địa lý, Tin học, Công nghệ,... Khai thác tốt những yếu tố liên môn nêu trên vừa mang lại hiệu quả với các bộ môn, vừa góp phần củng cố kiến thức môn Toán, cũng như góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng toán học vào thực tiễn.
Ví dụ, khi học về thống kê học sinh lớp 6 có thể thực hiện thu thập nhiệt độ của địa phương tại mốc thời gian nhất định trong một tuần lễ; tính trung bình cộng của nhiệt độ, từ đó đưa ra những nhận xét về biến đổi thời tiết của địa phương trong tuần. Như vậy, học sinh vừa được học về Toán, vừa nắm được kiến thức Địa lý và có ý thức giải quyết vấn đề của thực tiễn. Thông qua tiết học này, ta có thể dạy học sinh về biến đổi khí hậu, để các em có ý thức hơn về việc bảo vệ môi trường sống của mình. Vậy là, một tiết học của môn Toán đã thực hiện được đa mục đích, đây là điều môn Toán trước đây còn ít làm được.
Một ví dụ khác, các em học sinh phải biết sử dụng các kiến thức toán học về ba đường cônic vào giải thích một số hiện tượng, quy luật trong Quang học.
- Với những thay đổi của chương trình môn Toán mới, theo ông, phương pháp giáo dục cần thay đổi thế nào?
Chương trình môn Toán mới đòi hỏi giáo viên phải thay đổi thực sự phương pháp giáo dục. Mục tiêu, nội dung chương trình được xây dựng theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực, vì thế phương pháp dạy học cũng phải thay đổi cho phù hợp: phải đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó.
Ảnh minh họa: Thanh Hùng.
Các giáo viên phải quán triệt tinh thần "lấy người học làm trung tâm", phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập của từng cá nhân. Yêu cầu mới khiến người thầy cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trong đó học sinh được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề; linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực…
Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức dạy học thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ngoài lớp, tránh rập khuôn, máy móc. Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. Thái độ học tập của học sinh có ảnh hưởng đáng kể đến cách mà họ tiếp cận giải quyết vấn đề và đạt hiệu quả trong học Toán. Giáo viên cần giúp học sinh phát triển niềm tin về vị trí, vai trò tích cực của Toán học đối với đời sống con người trong xã hội hiện đại, cần khuyến khích học sinh phát triển hứng thú, sự sẵn sàng học hỏi, tìm tòi, khám phá để có thể trở thành con người thành công trong học tập bộ môn Toán.
Tinh thần chung của chương trình môn Toán mới là giảm nhẹ yêu cầu về giải bài tập, cương quyết không đưa vào các dạng bài tập mẹo mực, lắt léo. Những bài tập như thế về cơ bản chỉ để phục vụ việc thi cử chứ không giúp hình thành và phát triển năng lực cho người học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan hiện nay và phản ứng của dư luận xã hội về việc con em học toán vô cùng vất vả mà không biết để làm gì.
Xin cảm ơn ông!
Thanh Hùng(thực hiện)
Những thay đổi của môn Toán ở chương trình phổ thông mới
Nội dung chương trình môn Toán ở chương trình phổ thông mới sẽ tinh giản nhiều so với chương trình hiện hành, chú trọng tính ứng dụng thiết thực, gắn kết với đời sống thực tế.
" alt="Chương trình môn Toán sẽ giảm nhẹ yêu cầu về giải bài tập, bỏ các bài mẹo và lắt léo" />Chương trình môn Toán sẽ giảm nhẹ yêu cầu về giải bài tập, bỏ các bài mẹo và lắt léo
Cùng với các môn Toán học, Công nghệ và Tin học, môn Khoa học tự nhiên góp phần thúc đẩy giáo dục STEM (Science, Technology, Engineering, Mathematics).
Môn Khoa học tự nhiên là môn học phát triển từ môn Khoa học ở lớp 4, 5 (cấp tiểu học), được dạy ở trung học cơ sở và là môn học bắt buộc.
Môn học sẽ giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành và phát triển ở cấp tiểu học; hình thành phương pháp học tập, hoàn chỉnh tri thức và kỹ năng nền tảng để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động.
Vì vậy, việc xây dựng chương trình dựa trên 5 quan điểm là chương trình môn Khoa học tự nhiên cụ thể hóa những mục tiêu và yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể; Hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; Quan điểm dạy học tích hợp; Quan điểm khoa học và thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành; Quan điểm phát triển bền vững và thực tiễn của Việt Nam.
Môn Khoa học tự nhiên góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục phổ thông, giúp học sinh phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần; Hình thành và phát triển những phẩm chất chủ yếu ở học sinh như yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm; Hình thành và phát triển năng lực ở học sinh như năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo.
Học sinh phải đạt được 3 phẩm chất, 3 năng lực, 3 năng lực chuyên môn
Môn Khoa học tự nhiên trong chương trình giáo dục phổ thông mới yêu cầu học sinh phải đạt được 3 phẩm chất, 3 năng lực, 3 năng lực chuyên môn.
3 phẩm chấtmà học sinh phải đạt được bao gồm góp phần chủ yếu trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh. Đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh phẩm chất tự tin, trung thực, khách quan, tình yêu thiên nhiên, hiểu, tôn trọng và biết vận dụng các quy luật của thế giới tự nhiên để từ đó biết ứng xử với thế giới tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững; Giúp học sinh biết trân trọng, giữ gìn và bảo vệ tự nhiên, có thái độ và hành vi tôn trọng các quy định chung về bảo vệ tự nhiên; hứng thú khi tìm hiểu thế giới tự nhiên và vận dụng kiến thức vào bảo vệ thế giới tự nhiên của quê hương, đất nước.
Thông qua dạy học, môn Khoa học tự nhiên sẽ giáo dục cho học sinh biết yêu lao động, có ý chí vượt khó; có ý thức bảo vệ, giữ gìn sức khoẻ của bản thân, của người thân trong gia đình và cộng đồng.
3 năng lựchọc sinh phải đạt được là năng lực tự chủ và tự học; Năng lực giao tiếp và hợp tác; Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
3 năng lực chuyên môngồm nhận thức kiến thức khoa học tự nhiên; Tìm tòi và khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Nội dung xây dựng trên 3 trục cơ bản
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình môn Khoa học tự nhiên sẽ được xây dựng dựa trên sự kết hợp của 3 trục cơ bản là Chủ đề khoa học – Các nguyên lý/ khái niệm chung của khoa học – Hình thành và phát triển năng lực.
Trong đó, các nguyên lý/ khái niệm chung là vấn đề xuyên suốt, gắn kết các chủ đề khoa học của chương trình. Chủ đề khoa học chủ yếu của chương trình môn Khoa học tự nhiên gồm: Chất và sự biến đổi của chất:chất có ở xung quanh ta, cấu trúc của chất, chuyển hoá hoá học các chất. Vật sống là sự đa dạng trong tổ chức và cấu trúc của vật sống; các hoạt động sống; con người và sức khoẻ; sinh vật và môi trường; di truyền, biến dị và tiến hoá; Năng lượng và sự biến đổi: năng lượng, các quá trình vật lý, lực và sự chuyển động; Trái Đất và bầu trời: chuyển động trên bầu trời, Mặt Trăng, hệ Mặt Trời, Ngân Hà, hóa học vỏ Trái Đất, một số chu trình sinh - địa - hóa, sinh quyển.
Các chủ đề được sắp xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, có kết hợp ở mức độ nhất định với cấu trúc đồng tâm, đồng thời có thêm một số chủ đề liên môn, tích hợp nhằm hình thành các nguyên lý, quy luật chung của thế giới tự nhiên.
Các nguyên lý chung của khoa học tự nhiên trong chương trình môn Khoa học tự nhiên gồm: Tính cấu trúc, sự đa dạng, sự tương tác, tính hệ thống, sự vận động và biến đổi.
Các nguyên lý chung, khái quát của khoa học tự nhiên là nội dung cốt lõi của môn Khoa học tự nhiên. Các nội dung vật lý, hoá học, sinh học, Trái Đất và bầu trời được tích hợp, xuyên suốt trong các nguyên lý đó.
Phương pháp giáo dục tích cực, đánh giá học cả quá trình
Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, chương trình môn Khoa học tự nhiên thích hợp với các phương pháp giáo dục tích cực, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích luỹ được để phát triển.
Vì vậy, các phương pháp giáo dục chủ yếu được lựa chọn theo các định hướng: Dạy học bằng tổ chức chuỗi hoạt động tìm tòi, khám phá tự nhiên; Rèn luyện được cho học sinh phương pháp nhận thức, kỹ năng học tập, thao tác tư duy; Thực hành thí nghiệm, hoạt động trải nghiệm trong môi trường tự nhiên, thực tiễn đời sống cá nhân và xã hội; Tăng cường phối hợp hoạt động học tập cá nhân với học hợp tác nhóm nhỏ; Kiểm tra, đánh giá, đặc biệt đánh giá quá trình được vận dụng với tư cách phương pháp tổ chức hoạt động học tập.
Hoạt động học tập của học sinh là hoạt động chủ động, tích cực chiếm lĩnh, thực hành, vận dụng tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường, thông qua một số phương pháp dạy học chủ yếu tìm tòi, khám phá; phát hiện và giải quyết vấn đề; dạy học theo dự án; bài tập tình huống; dạy học thực hành và thực hiện bài tập; tự học...
Đánh giá kết quả giáo dục môn Khoa học tự nhiên căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định. Phạm vi đánh giá là toàn bộ nội dung và yêu cầu cần đạt của chương trình môn Khoa học tự nhiên.
Đối tượng đánh giá là sản phẩm và quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thông qua học tập môn Khoa học tự nhiên.
Kết quả giáo dục được đánh giá bằng các hình thức định tính và định lượng thông qua đánh giá quá trình, đánh giá tổng kết ở cơ sở giáo dục, các kỳ đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kỳ đánh giá quốc tế.
Kết quả các môn học tự chọn được sử dụng cho đánh giá kết quả học tập chung của học sinh trong từng năm học và trong cả quá trình học tập.
Việc đánh giá quá trình do giáo viên phụ trách môn học tổ chức, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của cha mẹ học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp.
Việc đánh giá tổng kết do cơ sở giáo dục tổ chức. Việc đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức để phục vụ công tác quản lý các hoạt động dạy học, phát triển chương trình và nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhiều yêu cầu với giáo viên và nhà trường
Môn Khoa học tự nhiên trong chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra yêu cầu cần được bồi dưỡng về phương pháp dạy học tích hợp, dạy học phân hoá; kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực; bồi dưỡng kiến thức vật lý, hoá học, sinh học để vừa nắm vững các nguyên lý khoa học tự nhiên, các nguyên lý ứng dụng công nghệ, vừa hiểu sâu các khái niệm, quy luật tự nhiên
Theo Ban soạn thảo chương trình, đây cũng là yêu cầu của giáo viên dạy học môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung học cơ sở, đáp ứng định hướng của giai đoạn giáo dục cơ bản là trang bị cho học sinh tri thức, kỹ năng nền tảng; hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi; chuẩn bị tâm thế cho việc thích ứng với những thay đổi nhanh chóng và nhiều mặt của xã hội tương lai; đáp ứng yêu cầu phân luồng sau trung học cơ sở theo các hướng: học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia cuộc sống lao động.
Mặt khác Khoa học tự nhiên có điều kiện giáo dục những vấn đề toàn cầu như phát triển bền vững và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu, dân số, bảo vệ môi trường, an toàn, năng lượng, giới và bình đẳng giới, bảo vệ đa dạng sinh học... Giáo viên cần nhận ra đây là điều kiện thuận lợi để linh hoạt, sáng tạo lựa chọn các hình thức, phương pháp và biện pháp dạy học phù hợp.
Môn Khoa học tự nhiên cũng chú trọng thực hành thí nghiệm, vì vậy, nhà trường phổ thông cần được đầu tư trang thiết bị, vật liệu, hoá chất, phòng học bộ môn.
Giáo viên cần dành thời gian thích đáng giới thiệu cho học sinh cách sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, các cách học phổ biến và đặc thù môn học, các quy tắc an toàn cho bản thân khi thực hành thí nghiệm, các trang thiết bị, dụng cụ học tập và cách sử dụng an toàn, cách thực hiện một số kỹ năng, các nguồn tra cứu tài liệu tham khảo.
Trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ở các nhà trường còn hạn chế, việc tổ chức cho học sinh tiếp cận, tìm hiểu thế giới tự nhiên gặp nhiều khó khăn thì cần lưu ý tổ chức cho học sinh tham quan các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ở những địa phương.
Ở những nơi khó khăn, có thể tổ chức cho học sinh quan sát qua các phương tiện nghe nhìn hiện đại.
Trên đây là những nét tóm lược về chương trình môn Khoa học tự nhiên. Dự thảo chương trình môn học này sẽ được Bộ GD-ĐT giới thiệu trong tháng 1 để nhận các ý kiến đóng góp.
Lê Huyền
Chương trình môn học phổ thông: Những thông tin mới nhất
VietNamNet giới thiệu những nội dung cơ bản của dự thảo chương trình các môn học phổ thông mới đang được Ban Phát triển chương trình (Bộ GD-ĐT) gấp rút hoàn thiện.
" alt="Môn Khoa học tự nhiên sẽ như thế nào trong chương trình giáo dục phổ thông mới" />Môn Khoa học tự nhiên sẽ như thế nào trong chương trình giáo dục phổ thông mới
Trường Trung cấp nghề - GDTX Tháp Mười. Ảnh Báo Đồng Tháp
Về quản lý, sử dụng và quyết toán thu - chi kinh phí hoạt động, trường thực hiện không đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các quy định pháp luật về kế toán.
Cụ thể, năm 2015, trường thu tiền 20% góp vốn của Công ty Cổ phần Thương mại Á Châu, không hạch toán thu - chi mà khấu trừ mua nguyên liệu số tiền hơn 72 triệu đồng là sai quy định.
Tháng 8/2015, trường không mua vật tư để thực hành cho các lớp trung cấp nghề nhưng vẫn làm hồ sơ quyết toán khống số tiền hơn 87 triệu đồng.
Đến khi có kết luận của Tổ kiểm tra Sở LĐTB&XH tỉnh vào ngày 9/11/2016, Trường mới mua số vật tư thực hành nhập vào kho số tiền hơn 87 triệu đồng nói trên.
Năm 2016, trường cho ông Phan Văn Hồng, Trưởng phòng Tài chính - Kế toán nợ tạm ứng kéo dài số tiền 82 triệu đồng; năm 2017 tạm ứng ngoài sổ sách kế toán để mua vật tư số tiền 52 triệu đồng và một số sai phạm như phần kết quả kiểm tra, xác minh là thực hiện không đúng quy định Luật Kế toán và Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC, ngày 30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Cũng theo kết luận thanh tra, về công tác quản lý, sử dụng viên chức và ký hợp đồng lao động thì từ tháng 5/2015 – 8/2017, trường thực hiện chi trả lương, thưởng và các khoản khác cho 2 hợp đồng lao động là ông Võ Trí Trọng và bà Hồ Nhất Nữ không đúng quy định với tổng số tiền hơn 211 triệu đồng.
Qua xem xét, không thu hồi do thực tế 2 hợp đồng này không làm việc tại trường mà làm việc tại Phòng Người có công thuộc Sở. Việc thực hiện này là không đúng quy định về trình tự, thủ tục quản lý, sử dụng viên chức và ký hợp đồng lao động.
Ngoài ra kết luận cũng xác định việc chấp hành và thực hiện nghĩa vụ thuế từ năm 2014 - 30/6/2017, trường chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng với số tiền hơn 227 triệu đồng.
Về quyết toán kinh phí đào tạo nghề lao động nông thôn, đào tạo nghề theo địa chỉ và hoạt động liên kết đào tạo.
Kết luận thanh tra cho rằng, việc trường có chủ trương liên hệ với ông Trần Hồng Tâm và Nguyễn Anh Tuấn, giáo viên Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp cung cấp thông tin của 7 giáo viên khác để lập hợp đồng khống dạy lý thuyết các lớp nghề chế biến và bảo quản thủy sản là do trường cần thêm các giáo viên đứng tên để hợp thức hóa hồ sơ, sổ sách cho phù hợp.
Thực tế, việc lập hợp đồng, ký và thanh lý hợp đồng giảng dạy lý thuyết các lớp nghề chế biến và bảo quản thủy sản đối với 7 giáo viên được thực hiện giữa ông Lê Minh Tuấn, Hiệu trưởng, ông Lê Minh Châu, nguyên Phó Hiệu trưởng và ông Nguyễn Phước Khánh, Phó trưởng phòng Đào tạo của trường với ông Tâm và Tuấn để quyết toán khống của 7 giáo viên với tổng số tiền vi phạm hơn 189 triệu đồng từ nguồn kinh phí đào tạo nghề theo Đề án 1956.
Cũng qua thanh tra phát hiện việc tổ chức ghép các lớp chế biến và bảo quản thủy sản tại Công ty TNHH Thủy sản Phát Tiến và Công ty Cổ phần Thương mại Á Châu: từ năm 2014 - 2016, trường có chủ trương ghép các lớp để thực hiện thủ tục quyết toán lấy số tiền thừa chênh lệch với tổng số tiền sai phạm hơn 210 triệu đồng.
Ngoài ra, cơ quan chức năng phát hiện, Trung tâm Giáo dục thường xuyên và Kỹ thuật hướng nghiệp tỉnh Đồng Tháp ký hợp đồng với trường thực hiện lớp đào tạo công nhân xây dựng (sơ cấp) với 35 học viên.
Kết thúc khóa học, Trung tâm Giáo dục thường xuyên và Kỹ thuật hướng nghiệp tỉnh đã thanh toán cho trường số tiền gần 35 triệu đồng.
Đáng nói, trường lại lấy danh sách 35 học viên lớp này để tiếp tục lập hồ sơ, ký hợp đồng với Sở LĐTB&XH tỉnh quyết toán kinh phí đào tạo nghề nông thôn năm 2015 theo Đề án 1956 nói ở trên.
Tương tự, năm 2015, trường có ký hợp đồng theo đơn đặt hàng của Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Tỉnh Đồng Tháp tổ chức đào tạo 2 lớp cắt gọt kim loại trên máy CNC.
Trường đã quyết toán khống về nguyên vật liệu thực hành, chi phí quản lý lớp với số tiền sai phạm là hơn 33 triệu đồng.
Quyết toán không đúng thực tế về nguyên vật liệu, chi phí quản lý các lớp may công nghiệp năm 2015 và lớp tạo sản phẩm từ lục bình, bẹ chuối năm 2017 với số tiền hơn 7,7 triệu đồng.
Kết luận thanh tra cũng chỉ ra việc chi phụ cấp ưu đãi 30% không đúng quy định. Cụ thể, năm 2015 và 2016, trường thực hiện chi phụ cấp ưu đãi đối với 5 giáo viên không tham gia giảng dạy với số tiền hơn 73 triệu đồng…
Kết luận thanh tra cho rằng, những sai phạm trong việc quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đào tạo nghề lao động nông thôn, đào tạo nghề theo địa chỉ, liên kết đào tạo với tổng số tiền hơn 470 triệu đồng. Việc để ngoài sổ sách kế toán, sử dụng số tiền nêu trên là không đúng quy định.
Đề nghị kiểm điểm, chuyển hồ sơ sang công an
Liên quan đến vụ việc, Chánh Thanh tra tỉnh Đồng Tháp đã ban hành 6 Quyết định thu hồi tiền, với tổng số tiền hơn 616 triệu đồng liên quan đến các vi phạm trong công tác quyết toán kinh phí đào tạo nghề nông thôn, đào tạo nghề theo địa chỉ và liên kết đào tạo.Đến nay, Trường đã nộp khắc phục xong.
Đối với việc chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế số tiền hơn 227 triệu đồng, đã đề nghị Cục Thuế tỉnh xử lý theo quy định. Đến ngày 17/11/2017, Trường đã nộp xong số tiền thuế tại Kho bạc Nhà nước Tháp Mười.
Đặc biệt, Thanh tra tỉnh Đồng Tháp kiến nghị Chủ tịch UBND tỉnh này chỉ đạo Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các ngành chức năng có liên quan, tham mưu UBND Tỉnh tổ chức kiểm điểm và có hình thức xử lý trách nhiệm GĐ Sở LĐTB&XH với vai trò người đứng đầu trong công tác quản lý, điều hành chưa chặt chẽ, thiếu chỉ đạo kiểm tra, xử lý khắc phục những hạn chế, vi phạm tại trường.
Đồng thời chỉ đạo Giám đốc Sở kiểm điểm trách nhiệm đối với Đoàn Thanh tra Sở do thực hiện chưa hết trách nhiệm trong việc tham mưu, đề xuất Giám đốc Sở ký và ban hành kết luận thanh tra số 541 ngày 24/4/2017.
Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm trong công tác quản lý, sử dụng quyết toán kinh phí đào tạo nghề nông thôn, đào tạo nghề theo địa chỉ và liên kết đào tạo tại Trường sang Cơ quan điều tra Công an tỉnh để tiến hành điều tra, xác minh làm rõ.
Nhiều sai phạm ở 2 đại học quốc gia, ồn ào quanh sách giáo khoa
Thông tin giáo dục trên báo chí trong tuần qua có những nội dung đáng chú ý, từ các đề xuất liên quan tới sách giáo khoa, tới hiện tượng giáo viên bỏ việc vì lương thấp và các kết quả thanh tra bước đầu ở 2 đại học lớn.
" alt="Hàng loạt sai phạm tại Trường Trung cấp nghề" />
...[详细]
Nội dung cốt lõi của môn học giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và các kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp). Các kỹ năng giao tiếp và kiến thức ngôn ngữ được xây dựng trên cơ sở các đơn vị năng lực giao tiếp cụ thể, trong các chủ đề và chủ điểm phù hợp với học sinh phổ thông nhằm giúp các em khi kết thúc cấp tiểu học đạt được năng lực giao tiếp Bậc 1, khi kết thúc bậc THCS đạt được Bậc 2 và khi kết thúc cấp THPT đạt Bậc 3 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Năng lực giao tiếp là mục tiêu của quá trình dạy học
Chương trình nhấn mạnh một số quan điểm sau: Xây dựng dựa trên nền tảng lý luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu của khoa học hiện đại; năng lực giao tiếp là mục tiêu của quá trình dạy học; kiến thức ngôn ngữ là phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng giao tiếp thông qua nghe, nói, đọc, viết; xây dựng theo hướng mở; không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ qui định những yêu cầu cần đạt về năng lực giao tiếp nghe, nói, đọc và viết cho mỗi lớp và gợi ý một số chủ đề, chủ điểm chính gắn với chuẩn đầu ra từng cấp học; đảm bảo lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học; đảm bảo tính liên thông và tiếp nối của việc dạy học Tiếng Anh giữa các cấp; đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và tính mở nhằm đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện dạy học tiếng Anh đa dạng ở các địa phương.
Chương trình giúp học sinh có một công cụ giao tiếp mới, hình thành và phát triển cho học sinh năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh thông qua các hình thức nghe, nói, đọc, viết. Kết thúc chương trình giáo dục phổ thông, học sinh có khả năng giao tiếp đạt trình độ Bậc 3 của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam tạo nền tảng có thể sử dụng tiếng Anh trong học tập, hình thành thói quen học tập suốt đời để trở thành những công dân toàn cầu trong thời kỳ hội nhập.
Giúp học sinh hiểu biết khái quát về một số nước nói tiếng Anh
Chương trình giúp học sinh có hiểu biết khái quát về đất nước, con người và nền văn hoá của một số nước nói tiếng Anh; có thái độ và tình cảm tốt đẹp đối với đất nước, con người, nền văn hoá và ngôn ngữ của các nước nói tiếng Anh.
Ngoài ra, Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh cũng góp phần hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất và năng lực cần thiết đối với người lao động: ý thức và trách nhiệm lao động, định hướng và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích, khả năng thích ứng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp mới.
Nội dung văn hoá được dạy học lồng ghép, tích hợp
Nội dung dạy học được thiết kế theo kết cấu đa thành phần, bao gồm: hệ thống các chủ đề (khái quát), các chủ điểm (cụ thể) mang tính gợi ý; các năng lực giao tiếp phù hợp với chuẩn năng lực cần đạt; danh mục kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) gợi ý phù hợp với việc phát triển năng lực giao tiếp ở cấp độ đã được qui định trong chuẩn đầu ra. Nội dung văn hoá được dạy học lồng ghép, tích hợp trong hệ thống các chủ đề, chủ điểm.
Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập trung vào năng lực giao tiếp ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc và viết. Năng lực giao tiếp của môn tiếng Anh là khả năng sử dụng kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) để tham gia vào các hoạt động giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) trong những tình huống hay ngữ cảnh có nghĩa với các đối tượng giao tiếp khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu giao tiếp của bản thân hay yêu cầu giao tiếp của xã hội.
Ảnh minh họa: Thanh Hùng.
Nội dung dạy học cả về năng lực giao tiếp lẫn kiến thức ngôn ngữ đều dựa trên yêu cầu của năng lực giao tiếp Bậc 1, 2 và 3 trong Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Cụ thể:
Các nội dung dạy học ở bậc tiểu học cần đảm bảo giúp học sinh có khả năng “hiểu, sử dụng các cấu trúc quen thuộc thường nhật; các từ ngữ cơ bản đáp ứng nhu cầu giao tiếp cụ thể. Có thể tự giới thiệu bản thân và người khác; có thể trả lời những thông tin về bản thân như nơi sinh sống, người thân/ bạn bè,… Có thể giao tiếp đơn giản nếu người đối thoại nói chậm, rõ ràng và sẵn sàng hợp tác giúp đỡ”;
Các nội dung dạy học ở bậc THCS cần đảm bảo giúp học sinh có khả năng “hiểu được các câu và cấu trúc được sử dụng thường xuyên liên quan đến nhu cầu giao tiếp cơ bản (như các thông tin về gia đình, bản thân, đi mua hàng, hỏi đường, việc làm,…). Có thể trao đổi thông tin về những chủ đề đơn giản, quen thuộc hằng ngày. Có thể mô tả đơn giản về bản thân, môi trường xung quanh và những vấn đề thuộc nhu cầu thiết yếu”;
Các nội dung dạy học ở bậc THPT cần đảm bảo giúp học sinh có khả năng “hiểu được các ý chính của một đoạn văn hay bài phát biểu chuẩn mực, rõ ràng về các chủ đề quen thuộc trong công việc, trường học, giải trí,... Có thể xử lý hầu hết các tình huống xảy ra ở những nơi ngôn ngữ đó được sử dụng. Có thể viết đoạn văn đơn giản liên quan đến các chủ đề quen thuộc hoặc cá nhân quan tâm. Có thể mô tả được những kinh nghiệm, sự kiện, ước mơ, hy vọng, hoài bão và có thể trình bày ngắn gọn các lý do, giải thích ý kiến và kế hoạch của mình”.
Giáo viên cần tạo cơ hội tối đa để học sinh sử dụng tiếng Anh
Đường hướng chủ đạo trong chương trình môn Tiếng Anh là đường hướng giao tiếp. Nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Các phương pháp giao tiếp có những điểm tương đồng với đường hướng lấy người học làm trung tâm trong giáo dục học. Đường hướng chủ đạo này quy định các hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Giáo viên cần hiểu rõ đặc điểm tâm - sinh lý của học sinh ở các cấp học khác nhau, coi học sinh là những chủ thể tích cực tham gia vào quá trình học tập. Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh sử dụng ngôn ngữ trong các ngữ cảnh, tình huống có nghĩa, sát với cuộc sống hằng ngày, dành thời gian cho học sinh tham gia vào các hoạt động giao tiếp thông qua nghe, nói, đọc và viết. Giáo viên sử dụng tiếng Anh trong quá trình dạy học trên lớp và tạo cơ hội tối đa để học sinh sử dụng tiếng Anh trong và ngoài lớp học.
Giáo viên sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện học tập ở địa phương, sử dụng hiệu quả các đồ dùng, thiết bị dạy học hiện đại trong quá trình dạy học, hướng dẫn học sinh sử dụng đồng bộ các tài liệu và phương tiện học tập như sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, học liệu điện tử, thiết bị nghe nhìn, công nghệ thông tin và truyền thông... để nâng cao hiệu quả dạy học.
Việc đánh giá hoạt động học của học sinh phải bám sát mục tiêu và nội dung dạy học của chương trình, dựa trên yêu cầu cần đạt đối với các kỹ năng giao tiếp ở từng cấp lớp. Nội dung và hình thức kiểm tra đánh giá cần bám sát mục tiêu dạy học, có tính đến những thay đổi trong mục tiêu từng cấp, như cấp tiểu học ưu tiên vào nghe và nói, cấp THCS nhấn mạnh đến phối hợp giữa các kỹ năng và cấp THPT chú trọng đến cân bằng giữa bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Hoạt động kiểm tra đánh giá cần được thực hiện theo hai hình thức: đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ. Đánh giá thường xuyên được thực hiện liên tục thông qua các hoạt động dạy học trên lớp. Trong quá trình dạy học, cần chú ý ưu tiên đánh giá thường xuyên nhằm giúp học sinh và giáo viên theo dõi tiến độ thực hiện những mục tiêu đã đề ra.
Thanh Hùng
Dự thảo chương trình môn Tiếng Anh từ lớp 3 đến lớp 12
Dưới đây là dự thảo Chương trình môn Tiếng Anh từ lớp 3 đến lớp 12.
" alt="Chương trình môn Tiếng Anh mới ở phổ thông xác định năng lực giao tiếp là mục tiêu" />
...[详细]