Đầu năm học này,òngtrọtănggiákýtúcxádồidàgia vang ngay hom nay lấy lý do kinh tế khó khăn, các chủ nhà trọ đồng loạtđẩy giá phòng lên khiến nhiều SV lao đao. Bù lại, nhiều ký túc xá vừaxây mới lại là một tin vui cho tân SV.
Đầu năm học này,òngtrọtănggiákýtúcxádồidàgia vang ngay hom nay lấy lý do kinh tế khó khăn, các chủ nhà trọ đồng loạtđẩy giá phòng lên khiến nhiều SV lao đao. Bù lại, nhiều ký túc xá vừaxây mới lại là một tin vui cho tân SV.
Việc ứng dụng CNTT phục vụ cải cách hành chính góp phần xây dựng một nền hành chính hiện đại hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo sự đồng thuận của người dân và doanh nghiệp.
Thời gian qua, tỉnh Hà Nam đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nâng cao hoạt động ứng dụng CNTT trong công tác quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị và hành chính công.
Đặc biệt, Tỉnh ủy Hà Nam đã ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số tỉnh Hà Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; UBND tỉnh xây dựng Đề án Chuyển đổi số tỉnh Hà Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030…
Trên cơ sở đó, các sở, ban, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh lộ trình chuyển đổi số, ứng dụng CNTT trong từng ngành, từng lĩnh vực trên địa bàn tỉnh và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Đến nay, các sở, ban, ngành và UBND huyện, thị xã, thành phố đều có mạng cục bộ và kết nối internet. Tỷ lệ trung bình máy tính/CBCC từ cấp huyện trở lên đạt 100%. Tỷ lệ trung bình máy tính/CBCC cấp xã là 85%.
Một số phần mềm, cơ sở dữ liệu đã được xây dựng và triển khai, như: Cơ sở dữ liệu đất đai, cơ sở dữ liệu lưu trữ, quản lý các đối tượng người có công, hệ thống thông tin địa lý (GIS), quản lý hộ tịch... Phần mềm Quản lý văn bản và điều hành bảo đảm liên thông 4 cấp chính quyền từ cấp xã đến cấp huyện, tỉnh, trung ương.
Các cơ quan, đơn vị đã ứng dụng phần mềm vào công tác chỉ đạo, điều hành và gửi, nhận văn bản điện tử liên thông giữa các cơ quan, đơn vị.
Hệ thống thư điện tử của tỉnh bảo đảm cung cấp hộp thư điện tử cho CBCC từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tỷ lệ CBCC từ cấp huyện trở lên thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc là 95%.
Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) luôn được coi là nền tảng quan trọng, giải pháp mang tính đột phá để nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), góp phần thực hiện chuyển đổi số trong cải cách hành chính (CCHC).
Xác định đây là yếu tố quan trọng để xây dựng, phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, tỉnh Bắc Ninh tích cực chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị; tập trung xây dựng chính quyền điện tử từ tỉnh đến cơ sở dần chuyển sang chính quyền số.
Hiện nay, hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh được kết nối, đồng bộ với Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công các Bộ, ngành và hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu khác như: Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm (BHXH Việt Nam); Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp); Hệ thống cấp phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến (Bộ Tư pháp)…
Trên hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh hiện cung cấp 1.790 dịch vụ công trực tuyến một phần và dịch vụ công trực tuyến toàn trình theo quy định tại Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/06/2022 của Chính phủ, qua đó tạo điều kiện, phục vụ người dân và doanh nghiệp thực hiện nộp hồ sơ trực tuyến thuận lợi nhanh chóng.
Trong 9 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ DVC trực tuyến toàn trình trên hệ thống của tỉnh là 35,52% và trên Cổng dịch vụ công Quốc gia là hơn 36%; tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến toàn tỉnh là 38,87%, trong đó: tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến cấp tỉnh là 58,01%; tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến cấp huyện (bao gồm cả cấp xã) là 30,42%; tổng số PAKN được tiếp nhận trên thiết bị di động là 2.137, tổng số PAKN đã xử lý là 1.963, đạt 91,9%.
Quang Phong và nhóm PV, BTV" alt=""/>Nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính nhờ ứng dụng công nghệ thông tinĐiều đặc biệt, số ứng viên mà các Hội đồng GS cơ sở đề xuất lên các Hội đồng GS ngành để xem xét thông qua là 416 ứng viên. Tuy nhiên, theo kết quả của các Hội đồng GS ngành vừa công bố đề nghị xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2020, chỉ có 321 ứng viên. Như vậy 95 ứng viên đã bị loại khỏi danh sách xét GS, PGS năm 2020.
Trong số này, nhiều ngành có rất nhiều ứng viên bị loại. Cụ thể như ngành Kinh tế có 20 ứng viên bị loại; liên ngành Điện-Điện tử-Tự động hóa có 10 ứng viên bị loại; ngành Vật lý có 9 ứng viên bị loại; liên ngành Khoa học Trái đất - Mỏ có 8 ứng viên bị loại; ngành Công nghệ Thông tin có 7 ứng viên bị loại.
Các ngành Y học, Toán học, Xây dựng- Kiến trúc, Cơ khí - Động lực mỗi ngành có 4-5 ứng viên bị loại.
Riêng ngành Ngôn ngữ học thì cả 2 ứng viên từ Hội đồng GS cơ sở đưa lên Hội đồng GS ngành đều bị loại.
Ngược lại ở một số ngành tất cả các ứng viên từ Hội đồng GS cơ sở đưa lên đều được Hội đồng GS ngành thông qua như liên ngành Chăn nuôi-Thú y-Thủy sản (10/10), ngành Luật học (4/4), liên ngành Sử học-Khảo cổ học-Dân tộc học (1/1), ngành Tâm lý học (3/3), ngành Thủy lợi (7/7), ngành Văn học (2/2).
Các ngành | Hội đồng GS cơ sở đề xuất | Hội đồng GS ngành thông qua | Số bị loại |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Chăn nuôi-Thú y-Thủy sản | 10 | 10 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành Cơ học | 7 | 3 | 4 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Cơ khí - Động lực | 21 | 16 | 5 |
Hội đồng Giáo sư ngành Công nghệ Thông tin | 15 | 8 | 7 |
Hội đồng Giáo sư ngành Dược học | 11 | 10 | 1 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Điện-Điện tử-Tự động hóa | 24 | 14 | 10 |
Hội đồng Giáo sư ngành Giao thông Vận tải | 7 | 6 | 1 |
Hội đồng Giáo sư ngành Giáo dục học | 11 | 10 | 1 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Hóa học - Công nghệ thực phẩm | 41 | 38 | 3 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Khoa học Trái đất - Mỏ | 20 | 12 | 8 |
Hội đồng Giáo sư ngành Kinh tế | 68 | 48 | 20 |
Hội đồng Giáo sư ngành Luật học | 4 | 4 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành Luyện kim | 3 | 2 | 1 |
Hội đồng Giáo sư ngành Ngôn ngữ học | 2 | 0 | 2 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Nông nghiệp - Lâm nghiệp | 7 | 6 | 1 |
Hội đồng Giáo sư ngành Sinh học
| 18 | 15 | 3 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Sử học-Khảo cổ học-Dân tộc học | 1 | 1 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành Tâm lý học | 3 | 3 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành Thủy lợi | 7 | 7 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành Toán học | 21 | 16 | 5 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Triết học-Xã hội học-Chính trị học | 6 | 4 | 2 |
. Hội đồng Giáo sư liên ngành Văn hóa-Nghệ thuật-Thể dục Thể thao | 15 | 12 | 3 |
Hội đồng Giáo sư ngành Văn học | 2 | 2 | 0 |
Hội đồng Giáo sư ngành Vật lý
| 36 | 27 | 9 |
Hội đồng Giáo sư liên ngành Xây dựng-Kiến trúc | 11
| 7 | 4 |
Hội đồng Giáo sư ngành Y học | 45 | 40 | 5 |
Tổng | 416
| 321 | 95 |
Bị loại vì liên quan tới công bố khoa học
95 ứng viên bị Hội đồng GS ngành loại khỏi danh sách xét GS, PGS năm 2020 là con số khá lớn.
Chia sẻ với VietNamNet, một thành viên Hội đồng GS ngành Vật lý cho biết, những ứng viên không được Hội đồng GS ngành thông qua vì liên quan tới nghiên cứu khoa học. Theo đó, lý do chính là số lượng bài báo tăng quá nhanh trong 2 năm qua. Ngoài ra, cũng có một số lý do khác như địa chỉ nơi làm việc của ứng viên hay hồ sơ có nhầm lẫn…
Theo ông, ngành Vật lý có 9 ứng viên không được thông qua để xét GS, PGS. Khi gửi danh sách ứng viên lên Hội đồng GS Nhà nước, Hội đồng GS ngành Vật lý đã ghi rõ nguyên nhân khiến các ứng viên bị loại.
Lý do liên quan tới nghiên cứu khoa học cũng được một thành viên Hội đồng GS ngành Kinh tế đưa ra. Năm nay, có 20 ứng viên không được Hội đồng GS ngành Kinh tế thông qua để xét công nhận GS, PGS.
Hội đồng GS ngành Y học có 5 ứng viên bị loại. GS.TS Đặng Vạn Phước, Chủ tịch hội đồng ngành này cho hay các ứng viên bị loại do chiếu theo tiêu chuẩn “cứng” đã quy định như như GS phải có sách chuyên khảo, PGS thì phải có số giờ giảng theo quy định. Ngoài ra, một số ứng viên công bố số bài báo khoa học quá nhiều trong thời gian quá ngắn.
“Có ứng viên chỉ trong nửa năm công bố từ 4-5 chục (40-50) bài báo khoa học, đây là điều không thể và thực sự không ai có thể làm được như vậy”- GS Phước nói.
Đánh giá các ứng viên đã được Hội đồng GS ngành Y học thông qua, GS Phước cho hay chất lượng của các ứng viên khá tốt. Các ứng viên cũng rất cẩn thận, nếu thấy không đủ tiêu chuẩn thì không nộp hồ sơ, nên số lượng ứng viên của ngành Y học năm nay ít hơn các năm trước.
Lê Huyền
Hội đồng Giáo sư Nhà nước vừa công bố danh sách ứng viên được hội đồng giáo sư ngành, liên ngành đề nghị xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2020.
" alt=""/>Gần 100 ứng viên bị loại khỏi danh sách xét GS, PGS năm 2020Ngày 29/12/2016, UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên THCS được điều chuyển dạy mầm non, tiểu học năm học 2016 – 2017.
Sau khi thống nhất với ĐH Hồng Đức, Sở GD-ĐT Thanh Hóa đã ban hành kế hoạch về triển khai đào tạo, bồi dưỡng giáo viên THCS được điều chuyển. Tổng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng là hơn 3 tỷ đồng.
Buổi khai giảng khóa đào tạo diễn ra chiều 9/3 |
Tại hội nghị sơ kết học kỳ 1 của năm học 2016 - 2017 diễn ra vào ngày 13/1/2017, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT yêu cầu các địa phương tạm dừng triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng; đồng thời giao Trường ĐH Sư phạm Hà Nội xây dựng khung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho những giáo viên THCS điều chuyển dạy tiểu học và mầm non để triển khai thống nhất trong toàn quốc theo phương thức học tập trung kết hợp với trực tuyến, vừa học vừa thực hành nghề nghiệp tại các trường mầm non, tiểu học.
Từ đó, Giám đốc Sở GD-ĐT đã đề nghị Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa cho phép tạm dừng triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch để chờ thực hiện theo chủ trương chung của Bộ GD-ĐT.
Tuy nhiên, sau đó UBND tỉnh lại có văn bản số 1607/UBND-VX yêu cầu Giám đốc Sở GD-ĐT Thanh Hóa nghiêm túc, khẩn trương triển khai thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên điều dạy mầm non.
Theo đó, Sở GD-ĐT Thanh Hóa đã ra công văn số 397, ký ngày 3/3/2017 thông báo việc nhập học lớp đào tạo, bồi dưỡng đối với các giáo viên THCS về dạy mầm non và tiểu học bắt đầu từ ngày 9/3. Điều này khiến nhiều giáo viên bức xúc.
Lớp bồi dưỡng được chia làm 2 đợt, tập trung học tại 2 cơ sở trường ĐH Hồng Đức. Đợt 1 bắt đầu từ ngày 9/3. Đợt 2 từ ngày 17/4. Mỗi đợt học kéo dài 6 tuần (ngày học 2 buổi).
Một giáo viên ở đây cho biết, chị vẫn đang dạy học bình thường bỗng có danh sách gọi đi học trong khi chưa có khung chương trình đào tạo từ Bộ GD-ĐT.
“Chúng tôi đã không có chuyên môn và kỹ năng dạy mầm non. Được đi đào tạo là cái tốt, nhưng khi chưa có khung chương trình đào tạo mà vẫn tổ chức lớp, chúng tôi sợ rằng khi học xong lại không đúng như phương châm và hướng dẫn của Bộ GD-ĐT, lại mất công thêm lần nữa”,một giáo viên cho biết.
Rất nhiều giáo viên của huyện Nga Sơn phản ánh: Hôm qua vẫn đang còn dạy học bình thường, đùng một cái nhận được thông báo ngày mai nghỉ dạy để đi học lớp bồi dưỡng mầm non.
Giáo viên không được thông báo trước, cũng chưa nhận được quyết định điều chuyển. Họ cũng chưa đăng kí lớp mà Sở GD-ĐT tự đăng kí, lập danh sách tham gia; có trường hợp hiệu trưởng nhà trường cũng không hề hay biết.
Trao đổi vớiVietNamNet, ông Nguyễn Ngọc Thành, Trưởng phòng Đào tạo (Sở GD-ĐT Thanh Hóa) xác nhận, có việc khai giảng lớp đào tạo nói trên vào chiều qua (ngày 9/3) tại Trường ĐH Hồng Đức.
Lý giải về vấn đề này, ông Thành cho biết, sau khi có chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, tỉnh Thanh Hóa lại có văn bản số 1415/UBND ngày 14/2/2017 chỉa đạo với nội dung: Trong thời gian chờ Bộ GD-ĐT ban hành chương trình đào tạo giáo dục mầm non, yêu cầu Sở GD khẩn trương phối hợp với Trường ĐH Hồng Đức tổ chức đào tạo. Khi nào Bộ ban hành chương trình đào tạo sẽ tổ chức cập nhật, bổ sung.
Trước công văn trên, Sở GD-ĐT đã có văn bản gửi lại UBND tỉnh với nội dung: “Qua ý kiến trao đổi trực tiếp, Bộ GD-ĐT chưa đồng ý để tỉnh Thanh Hóa triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng để chờ chương trình của Bộ”.
Tuy nhiên chưa rõ lý do gì mà tỉnh Thanh Hóa lại vẫn ra văn bản yêu cầu Sở GD-ĐT phải thực hiện nghiêm túc theo công văn của tỉnh.
Lê Anh
" alt=""/>Điều chuyển giáo viên phổ thông dạy mầm non: Thanh Hóa 'kháng' lệnh Bộ Giáo dục